Thứ Năm, 24 tháng 12, 2009

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỦA QUỸ GIẢI THƯỞNG PHẠM THẬN DUẬT ĐÃ ĐƯỢC KHAI TRƯƠNG

Kính gửi Quý độc giả,
Trang Blog www.phamthanduat.blogspot.com ra đời đã được nửa năm. Trong thời gian trên có rất nhiều độc giả trong nước và ở nước ngoài (hơn 10 nước trên thế giới) đã ghé thăm trang blog này. Nhân danh Chủ tịch Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật, chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý vị độc giả và xin thông báo với quý vị : Kể từ ngày 29.11.2009, nhân kỷ niệm lần thứ 124 ngày hy sinh của danh nhân Phạm Thận Duật và cũng là ngày lễ kỷ niệm 10 năm Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật, 10 năm tổng kết hoạt động của Quỹ Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật và lễ trao Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật lần thứ 10 tổ chức tại Bái Đường Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Quỹ Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật đã công bố đổi tên là Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật để đáp ứng tôn chỉ, mục đích và nhiệm vụ mới do Quỹ đề ra. Và cũng trong ngày lễ trọng đại này, Quỹ đã cho khai trương một trang thông tin điện tử mới của Quỹ với địa chỉ http://www.giaithuongphamthanduat.vn đồng thời quyết định ngừng trang blog của Quỹ http://www.phamthanduat.blogspot.com kể từ ngày 25.12.2009.
Một lần nữa xin cảm ơn quý vị và mời quý vị ghé thăm www.giaithuongphamthanduat.vn.
Ks.PHẠM ĐÌNH NHÂN
Chủ tịch Quỹ Giảithưởng Phạm Thận Duật
Trưởng ban Chỉ đạo Trang thông tin điện tử

Thứ Hai, 16 tháng 11, 2009

QUỸ GIẢI THƯỞNG PHẠM THẬN DUẬT TỔ CHỨC VÀ TÀI TRỢ CHƯƠNG TRÌNH KHÁM BỆNH PHÁT THUỐC PHÁT QUÀ

(TIN TỰC HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ)

Lại một lần nữa, ngày 15.11.2009 Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật lại tổ chức và tài trợ cho Chương trình Khám bệnh, phát thuốc, phát quà cho đồng bào nghèo. Đây là lần thứ 3 trong 3 tháng liền, Quỹ đã phối hợp với các bác sĩ, điều dưỡng viên của Hội Tấm Lòng Nhân Ái để thực hiện chương trình từ thiện-xã hội giúp đồng bào nghèo ở nông thôn. Chương trình lần này đã tổ chức ở xã Liên Hoà, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.

Hội Tấm Lòng Nhân Ái đã huy động 32 bác sĩ, dược sĩ, điều dưõng viên để khám và kê đơn cho thuốc cho trên 406 người trong đó có 346 cụ già trên 75 tuổi của 6 thôn trong xã.

Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật đã huy động 14 Phật tử và thiện nguyện viên đến đảm nhiệm tổ chức và tài trợ khâu cấp thuốc miễn phí và phát tặng quà cho đồng bào nghèo. Giá trị tiền thuốc do Quỹ tài trợ lần này lên đến trên 9 triệu đồng gồm các loại thuốc kháng sinh, thuốc bệnh và mọi người đến khám đều có thuốc bổ. Quỹ đã phát tặng 346 cụ già, mỗi cụ một gói quà gồm một chiếc áo và bốn hộp sữa giá trị 60.000đ/xuất quà. Tổng giá trị quà lên đến gần 21 triệu đồng.

Đặc biệt lần này trong Chương trình khám bệnh, các bác sĩ đã mang theo hai máy siêu âm và đã tiến hành siêu âm cho gần 200 trường hợp. Chương trình khám bệnh có nhiều bàn khám nội, ngoại, và các bàn khám chuyên khoa mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt và da liễu. Bàn khám mắt đã phát hiện trên 110 ca mắt cần phải mổ thay thuỷ tinh thể trong tổng số 346 cụ già đến khám.

Nhiều bà con khi nhận quà lại được các thiện nguyện viên của Quỹ tay đưa tặng quà, miệng nói lời cám ơn bà con, nên có cụ rất xúc động nói : “Chúng tôi phải cảm ơn các bác mới đúng chứ!”. Có một hình ảnh cảm động mà nhiếp ảnh trong đoàn đã ghi lại được khi có một bác sĩ đã bế một cụ già 92 tuổi đưa đến bàn khám để khám bệnh.

Vì số lượng người đến khám nhiều, nên chương trình đã diễn ra cả buổi sáng và buổi chiều. Tuy mệt, nhưng mọi người trong đoàn làm từ thiện đều rất vui vẻ hoan hỉ vì đã được góp sức làm từ thiện với tinh thần và phương châm do Quỹ đề ra là “Phục vụ và đem lại lợi ích cho người khác là hạnh phúc và phước báo cho bản thân” và “Những người được mình giúp đỡ chính là ân nhân của mình” bởi vì chính họ đã tạo điều kiện cho bản thân mình được làm việc thiện để tạo phước và tích phước cho đời sau.

Chương trình đã thành công tốt đep. Các vị đại diện Đảng, Chính quyền và Mặt trận của xã Liên Hoà đã đề nghị được chụp ảnh chung với đoàn làm từ thiện dưới tấm biểu ngữ căng trên tiền sảnh của ngôi trường, nơi tổ chức chương trình, với dòng chữ :
CHƯƠNG TRÌNH KHÁM BỆNH PHÁT THUỐC PHÁT QUÀ CHO
ĐỒNG BÀO NGHÈO VÀ GIA ĐÌNH CHÍNH SÁCH
Đơn vị tổ chức và tài trợ : Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật
Đơn vị thực hiện : Hội Tấm Lòng Nhân Ái

Thứ Ba, 10 tháng 11, 2009

HỌ PHẠM NHÀN NGU VÀ PHẠM THẬN DUẬT VỚI TRUYỀN THỐNG HIẾU HỌC CỦA QUÊ NHÀ

NHÂN KỶ NIỆM LẦN THỨ 124 NGÀY MẤT DANH NHÂN PHẠM THẬN DUẬT
(29.11.1885 – 29.11.2009)


“Hiền tài là nguyên khí của Nhà nước”(1). Việc khơi dậy truyền thống hiếu học và sự dạy dỗ của gia đình, của dòng họ là một nhân tố quan trọng, nếu không nói là quyết định đối với sự nghiệp chăm lo đào tạo nhân tài.

Làng Yên Mô (nay là xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) nơi mà ông tổ Nhàn Ngu của dòng họ Phạm đến cư trú từ thế kỷ 15 là một vùng đất giàu văn hiến. Xưa kia vùng đất này nằm trên vụng biển Thần Phù nổi tiếng dữ dội và đã từng đi vào lịch sử với hai câu:

Lênh đênh qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm

Làng Yên Mô có hòn núi đá Vọng Sơn, tục gọi là núi Bảng hay núi Dắng, một ngọn núi đá vôi ở phía cuối dãy Tam Điệp của dãy Trường Sơn và hai dòng sông Trinh, sông Càn bao bọc. Về mặt lịch sử, đây là mảnh ®Êt đau thương đã từng bị quân Mạc, quân Trịnh bừa đi bừa lại suốt nửa sau thế kỷ XVI. Đất Yên Mô này, trước có tên là Mô Độ, là nơi cư trú đầu tiên của những người định cư từ nhiều nơi đến gồm có nhiều họ như họ Phạm, họ Phan, họ Nguyễn, họ Ngô, họ Vũ, họ Mai, họ Lê, họ Đỗ, có lẽ trước cả khi Giản Định Đế nhà Hậu Trần năm 1407 lên ngôi ở đây chiêu mộ quân tướng chống đánh giặc Minh. Thời Minh thống trị đổi tên là Yên Mô và đất này ắt phải là mảnh đất văn hiến và trù phú hàng đầu mới có tên làng cũng trùng với tên tổng và tên huyện Yên Mô của tỉnh Ninh Bình.

Trên mảnh đất này, dòng họ Phạm Nhµn Ngu từ bao thế kỷ nay có số nhân khẩu trong họ thường chiếm trên nửa số cư dân trong làng nên được suy tôn là họ Đại Phạm. Các đời nối tiếp ®Òu có các bậc khoa cử và đến đời thứ 10 thì xuất hiện một danh nhân. Đó là Phạm Thận Duật một nhân vật lịch sử đã sinh ra cách đây 184 năm và mất cách đây 124 năm.N¨m 1995, nhân kỷ niệm 110 năm ngày mất, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình cùng với Viện Sử học Việt Nam và Hội khoa hoc Lịch sử Việt Nam đã tổ chức long trọng lễ kỷ niệm dưới tiêu đề: “Phạm Thận Duật, nhà yêu nước, nhà văn hóa, người góp phần khởi động phong trào Cần vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX”.
Ông là biểu tượng cho truyền thống hiếu học ở quê tôi và là kết quả của một sự giáo dục nghiêm khắc trong gia đình và dòng họ Phạm.

MỘT VÙNG QUÊ GIÀU TINH THẦN HIẾU HỌC :

Xét về mặt lịch sử thì phải sau khi có con đê Hồng Đức (đắp năm 1475) thì đời sống cư dân nơi đây mới trù phú, phát triển cả về kinh tế và văn hóa. Chỉ riêng một làng Yên Mô vào thời Lê, khi đó còn bao gồm cả thôn Côi Trì (nay thuộc về xã Yên Mỹ) cũng đã có những nhà khoa bảng lớn như Hoàng giáp Ninh Địch (khoa Mậu Tuất 1718), Tiến sĩ Hội nguyên Thượng thư Ninh Tốn (khoa Mậu Tuất 1778). Sau này Côi Trì tách ra khỏi làng Yên Mô nhưng vẫn ở trong tổng Yên Mô, thời Nguyễn, có Phó bảng Nguyễn Tuyên, Cử nhân Nguyên Khôi. ë Phượng Trì làng dưới cùng thuộc tổng Yên Mô (nay cũng thuộc xã Yên Mạc) cũng có hương cống tức Cử nhân Phạm Bao thời Lê, thời Nguyễn có Cử nhân Vũ Phạm Khải và dòng họ Đại Phạm đất Yên Mô có Thượng thư Phạm Thận Duật, Hiệp biện Đại học sĩ, Cơ mật viện Đại thần.

Tấm bia Yên Mô sơn xuyên nhân vật bi ký do Phạm Thận Duật viết, đặt ở miếu thờ Thành hoàng làng năm 1870 nay không còn nữa, nhưng bài văn bia còn lưu lại được trong Quan Thành văn tập, một trong những tác phẩm của Phạm Thận Duật(1) là bài văn bia nói về sông núi và nhân vật đất Yên Mô, về những văn quan, võ quan đầu tiên của làng trong thời chúa Trịnh đánh nhà Mạc ở vùng này giữa thế kỷ 16, như Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Đô đốc đồng tri Lê Các lão, như Hàn lâm triều liệt Đại phu Phạm Nguyên Lãng, Thập lý hầu Phạm Phúc Kỳ và Hậu Trai tiên sinh Vũ Bá Hoàn người đã từng thụ giáo trường Quốc Tử Giám năm ¢t Dậu 1765 thời Lê Cảnh Hưng là người có học vấn uyên thâm, nổi tiếng một thời ở đất này.

Ngoài ra còn có tấm bia Yên Mô lịch khoa hương tiên sinh ghi rõ tên họ, khoa thi của 56 vị trong làng đã trải qua các kỳ khoa bảng cho đến cuối đời Lê Cảnh Hưng (1740 – 1786). Tấm bia này mới tìm thấy được năm 1989, hiện đang dựng t¹i sân trường tiểu học Ph¹m ThËn DuËt xã Yên Mạc (tên của Yên Mô từ 1946). Ngôi trường này xây trên nền khu Văn Từ cũ, nơi thờ Khổng Tử và các bậc tiên nho hàng huyện. Tấm bia đó do chính Phạm Thận Duật viết, là bằng chứng, là di tích lịch sử văn hóa còn lại của đất Yên Mô nói đến nền văn hiến đất này.

Trong Quan Thành văn tập còn ghi lại toàn văn một số tấm bia đặt trong những đền, chùa, miếu mạo, đình làng của đất này. Những tấm bia “thần đàn”, “thần tích” đó phản ánh đời sống văn hóa tâm linh, không khí văn hiến, lòng hiếu học của nhân dân địa phương. Trong các nội dung văn bia còn để lại (tuy hầu hết các bia đá không còn nữa do chiến tranh tàn phá) cho biết : để khuyến khích sự học tập của con em, làng Yên Mô thuở ấy có định ra một tục lệ khuyến học là giành sáu mẫu ruộng học điền hàng năm lấy hoa lợi làm phần thưởng cho nho sinh nào học giỏi trong làng. Hàng năm làng tổ chức thi khảo, chọn ra những người học giỏi, xếp theo thứ bậc.

Yên Mô là một vùng quê trù mật, đồng xanh lúa tốt hai vụ chiêm mùa, trên dòng sông thuyền bè đi lại ngược xuôi, phố quê tấp nập. Và có biết bao đền chùa, miếu mạo, những ngôi đền khang trang, rộng rãi có thể chứa cả hai, ba lớp học mà thời đầu kháng chiến chống Pháp, trường Thành Chung Nam Định tức là trường trung học Nguyễn Khuyến đã tản cư về đây sử dụng. Èn dưới những cây cổ thụ xum xuê rợp bóng, những ngôi đền tĩnh lặng, sáng loáng những bức hoành phi, câu đối cùng những tấm bia đá dày đặc chữ Hán đứng trầm mặc, chứng kiến sự đổi thế xoay vần của lịch sử, chứng kiến truyền thống hiếu học của cư dân. Tất cả những công trình văn hóa ấy đã bị chiến tranh tàn phá, san phẳng cùng với tâm linh khát vọng học hành của dân làng. Nhưng tận cho đến ngày nay vẫn có người còn thuộc một số câu đối đặt ở Văn Từ nơi thâm nghiêm thờ phụng các bậc tiên nho mà bất cứ kẻ sĩ nào bước vào cũng phải lặng nhìn, lặng đọc.

Trong Quan Thành văn tập còn lưu lại được bài văn bia do Phạm Thận Duật viết và được khắc đá đặt ở Văn Từ khi hàng huyện trùng tu lần cuối vào năm 1867. Bài văn bia đó có tên là Bản huyện từ chí nêu rõ: Nơi đây trước kia chỉ là Văn chỉ hàng tổng mà sau này vì Yên Mô là đất đầu huyện nên chuyển thành Văn Từ của hàng huyện. Qua bài văn bia, người ta thấy người xưa làm Văn Từ không phải là chỉ để thờ phụng các bậc tiên nho mà chính còn là chốn tâm linh, là một công trình văn hóa để bảo tồn, duy trì và phát huy truyền thống hiếu học của cư dân với khát vọng học để hành, tu rèn để nhập thế. Vì vậy, ta thấy ông có câu: “Việc thờ cúng thánh hiền quý ở việc làm. Cái học của thánh hiền, văn là ngũ kinh, hành là ngũ luân, điều này đã được ghi tường tận ở bia Văn Từ hàng phủ. Các vị trong hội ta nên tham khảo mà cố gắng làm theo”.

Tất cả những điều nói ở trên chỉ để khẳng định mảnh đất này, một vùng sơn thanh thủy tú đã từng có một không khí văn hiến, có cái truyền thống nối đời học đạo, góp phần hun đúc nên những phẩm chất, những nhân cách tốt đẹp của nhân tài.

Ngay trong dòng họ Phạm sinh ra Phạm Thận Duật thì bao đời trước đã có nhiều người đạt học vị sinh đồ (tức tú tài). Trong “Phạm tộc phổ ký” còn giữ lại được, có nêu nhiều tên tuổi các đời đỗ tường sinh hay sinh đồ đời Lê, tú tài đời Nguyễn. Các cụ tiên tổ họ Phạm bốn đời liền trước đời Phạm Thận Duật, từ người cha là cụ Kép Tuyển đỗ hai khoa tú tài tính trở lên đều là những bậc khoa cử, nhưng học vị đó dù là hai khoa tú tài cũng không đủ để bổ một chức quan trong ngạch bậc quan trường nên thường chỉ ở nhà làm thầy đồ dạy học cho con cháu được nhiều chữ, nuôi dưỡng lòng hiếu học cho con cháu vươn lên sau này.

Mãi đến thế kỷ thứ XIX, Phạm Thận Duật, người cháu đời thứ mười của dòng họ đại Phạm mới thừa hưởng được kết quả hun đúc từ bao đời. Ông sinh ra trong hoàn cảnh nghèo vì cha mất sớm khi mới lên chín, nhờ bà mẹ tần tảo quan năm với gánh hàng xén đi khắp các chợ ở vùng quê quanh đó để nuôi con ăn học.

Trong Vọng Sơn niên phổ, một trong những cuốn phả của dòng họ Phạm nói về cụ Tổ Vọng Sơn(1) có đoạn nói về ông: “Cơm mỗi ngày một bữa, mỗi bữa một bát, mỗi năm chỉ có một cái quần và một cái áo. Thế mà trong cảnh đói rét vẫn phấn khởi. Lúc lớn lên càng ham học quá. Muốn học mà không có tiền mua sách, phải đi mượn để chép mà học. Câu văn đoạn chữ coi quý như vàng, như ngọc. Học rất chăm chỉ: tối không có tiền mua dầu, phải đốt nén hương để soi mà học. Mỗi khi có việc đi đâu, vừa đi vừa học ôn các bài học trước, đi mỗi dặm đường học tới bốn, năm chục trang, thường khi đụng phải người ta mà cũng không biết”.

Trong các thầy học của ông, từ người thày khai tâm Vũ Phạm Khải dạy được bảy ngày thì lên đường vào Kinh nhậm chức, đến người cậu là thầy đồ Hòa Lạc Nguyễn Hữu Văn dạy ở trường làng, thầy đồ người làng là Phạm Tư Tề ngồi dạy học ở phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định và thày Lục Khê cư sĩ Phạm Đức Diệu ở Nộn Khê mà sau này trở thành nhạc phụ của ông, thì phải nói rằng Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, người làng Tam Đăng (Nam Định) một sĩ phu yêu nước nổi tiếng đất Sơn Nam là người thầy đã có nhiều công nhất dìu dắt dạy dỗ và hun đúc cho thư sinh Phạm Thận Duật trở nên người sau này đạt đến Nhất phẩm triều đình. Bởi lẽ ngay từ đầu, khi Lục Khê cư sĩ dẫn Phạm Thận Duật đến xin học, ông đã phát hiện ngay lòng hiếu học, tính nghiêm túc mẫn tiệp, cần cù khổ học của nho sinh họ Phạm nên không những chí tình dạy bảo mà còn nuôi dưỡng cho ăn học ở ngay trong nhà. Cái khí chất của người học trò ấy, năm năm sau đã biến thành cụ thể: Ông đỗ cử nhân trường Nam khoa Canh Tuất năm 1850, thứ 27, cuối bảng Giáp. Dù cuối bảng, nhưng cái ý chí quyết học hành nhập thế đã biểu lộ trong hai câu đối ứng tác của ông:

“Điên chi, đảo chi, quán quần anh chi thủ,
Chí hĩ, tận hĩ, cận thiên tử chi quang”.

Tạm dịch:
“Đưa lên, đảo xuống, sẽ đứng trên các bậc anh tài,
Cuối bảng, chí bền, sẽ kề bên ánh sáng Đức Vua”.

Cái khẩu khí ấy đã nghiệm đúng sau hơn 30 năm sĩ hoạn của một con người luôn luôn học hỏi để từ một cử nhân cuối bảng trở thành một ông quan “Đình thi độc quyển” chấm thi Hội, thi Đình để chọn lấy các bậc tiến sĩ, thám hoa, bảng nhãn.

CÔNG LAO DƯỠNG DỤC VUN ĐẮP NHÂN TÀI

Cũng phải nói rằng nếu chỉ có truyền thống hiếu học của quê hương đã tạo nên nhân tài thì không đủ. Sự dạy dỗ trong gia đình, dòng họ là hết sức quan trọng. Bởi lẽ trước tiên, không có một nhân tài nào mà không do công sinh đẻ và dạy dỗ của người mẹ từ khi mới lọt lòng.

Dưới những chuẩn mực giáo dục theo đạo ký làm người của người xưa, trên nền tảng Nho học thì sự giáo dục của gia đình lại càng là một nhân tố vô cùng quan trọng. Nhân tài xưa kia là kết quả của sự dạy dỗ trong gia đình của một người cha nghiêm nghị có khi còn khắc nghiệt đối với từng bước đi của con mình, là sự kết trái của tấm lòng bao dung thắm đượm tình mẫu tử của người mẹ dạy dỗ, vun đắp từ khi đứa con mình còn đang ẵm ngửa đến khi bước vào đời, vào con đường danh vọng và ngay cả lúc đã xênh xang áo mũ.

Nhân tài Phạm Thận Duật cũng vậy, ông cũng được hưởng một nền giáo dục gia phong, tôn tộc mà công lao dạy dỗ lại chính là người mẹ quanh năm đòn gánh trên vai đi khắp các chợ miền quê.

Trong Vọng Sơn niên phổ như đã nói ở trên có đoạn: “… Ông làm quan đến đây đã hơn 14 năm mà sự ăn ở của bản thân không khác lúc còn đi học. Cụ bà ở nhà vẫn buôn gánh hàng xén, đến sau mới có chút lương gửi về phụng dưỡng”. Cụ bà bảo ông: “Làm con mà có ăn ngon mặc tốt để phụng dưỡng cha mẹ thì thực là đáng quý. Nhưng làm cho dân nghèo đi để nhà mình giàu thì ta ghét lắm”. Có lần về quê thăm mẹ, sau những ngày mệt mỏi và đau yếu vì việc công, ông ở lại lâu như muốn lưu lại với mẹ già, không nỡ lòng xa mẹ, thì bà mẹ bảo: “Những điều dạy bảo của cha ngày trước là chữ trung và chữ hiếu. Trung với nước, tức là hiếu với nhà. Cứ quyến luyến với gia đình cũng không phải là hiếu đâu”. Ông nghiêm chỉnh nghe lời mẹ dạy, ra đi việc nước.

Sự dạy dỗ của bà mẹ về lòng liêm khiết, bằng chính gương lao động cần cù của bà ngay cả khi ông đã làm quan, đã giúp cho Phạm Thận Duật tăng thêm nhân cách cao đẹp của một vị quan thanh liêm. Cả cuộc đời ông vì nước vì dân, đến nỗi thường băn khoăn chưa nuôi nổi mẹ già. Và điều đó hình như ông đã có lần tâm sự với người học trò yêu của mình là chí sĩ Nguyễn Cao. Đến khi bà cụ mất, Nguyễn Cao có đôi câu đối viếng thân mẫu của thày mình, tạm dịch:

“Thầy tôi vẫn than phiền: Vất vả suốt đời chưa nuôi nổi mẹ.
Cụ cố nay lại mất: Nhìn dặm xa cách, nói sao hết tình”.

Xét về một khía cạnh nào đó, người mẹ, người cha trong nền giáo dục của ông cha ta chính lại là người thầy lớn trong suốt cuộc đời của người con, dù người con đó là một bậc hiền tài của đất nước. Sự dạy dỗ nghiêm khắc trong gia đình, trong dòng họ dựa vào truyền thống gia tộc để hiểu đạo lý làm người, đạo lý làm con, làm anh em, vợ chồng, làm trò, làm cha, làm quan phụ mẫu là cái cốt yếu, là nền tảng dựng nên nhân cách cao đẹp của con người, đưa con người lên tầm cao trong mối quan hệ sống và làm việc ở đời.

KHÍ THIÊNG SÔNG NÚI QUÊ TÔI

Trở lại vấn đề truyền thống hiếu học, có thể nói rằng mảnh đất quê hương nhiều đền chùa, miếu mạo, thờ cúng các bậc tiên nho, nhiều bia đá đầy chữ nghĩa thánh hiền và cũng nhiều sự chăm sóc đến dòng giống gia tộc nối chí cha ông đã hun đúc nên truyền thống hiếu học, nhắc nhở những người con đi theo sự nghiệp học hành, tu thân hành đạo mà Phạm Thận Duật là một tấm gương tiêu biểu ở quê tôi trong thế kỷ thứ XIX.
Ngày nay, dòng họ Đại Phạm cũng như các dòng họ khác ở quê tôi trải qua biết bao đổi thay của lịch sử đã ra đi sinh sống khắp nơi trong nước và ở cả nước ngoài. Song truyền thống hiếu học, khí thiêng sông núi của đất này cũng đã ban cho biết bao nhiêu nhà khoa bảng hiện đại. Các nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ quê tôi ở khắp trong nước và ngoài nước. Còn các vị cử nhân, kỹ sư, các nhà giáo, những người có bằng đại học ở quê tôi có rất nhiều mà đến nay chưa thống kê hết được. Họ đang đem hết sức mình đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nước nhà. Nhà gi¸o, nhµ thơ Phạm Cúc chuyên viết về thiếu nhi cũng là một con cháu họ Phạm. Ông đã có nhiều tập thơ được in trong thời gian gần đây, cũng là một con người được thừa hưởng truyền thống hiếu học của quê hương.

Ở nước ngoài, con cháu họ Phạm đất Yên Mô không quên nghĩ về quê hương, về cội nguồn mà người tiêu biểu là họa sĩ nổi tiếng Phạm Tăng, người cháu năm đời của Phạm Thận Duật. Ông được giải nhất hội họa của tổ chức UNESCO (tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp quốc) ngay tại đất thánh của hội họa là La Mã với bức tranh “Vũ trụ”. Ông còn là một nhà thơ tài danh mà Nhà xuất bản Văn học vừa cho in tập thơ mang tên ông, một tập thơ có thể nói là tập thơ “Hướng về quê hương, hướng về cội nguồn” với những câu nghe da diết:

Có ai còn nhớ Yên Mô
Sông Càn, núi Bảng đến giờ còn không?

Khí thiêng sông núi quê tôi đã hun đúc nên truyền thống hiếu học và truyền thống hiếu học đã góp phần hun đúc rèn luyện nhân tài.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã qua biết bao triều đại của hơn bốn mươi thế kỷ. Nhưng bất kỳ ở thời đại nào đất nước ta cũng sản sinh những vị anh hùng, những bậc hiền tài. Những bậc hiền tài ấy là do từ những bà mẹ anh hùng sinh ra ở những mảnh đất có khí thiêng, có truyền thống.

Những danh nhân của đất nước ta bao giờ cũng được sự hun đúc bởi truyền thống quê hương, truyền thống hiếu học, bởi sự chăm lo dạy dỗ của những người làm cha mẹ trong gia đình, của những bậc ông bà chú bác trong dòng họ. Phạm Thận Duật, một người con lỗi lạc của dòng họ Phạm đất Yên Mô cũng không thoát ra khỏi nguyên lý ấy. Ông đã trở thành một nhà văn hóa với nhiều tác phẩm để lại cho đời sau, trở thành một Cố mệnh đại thần, một sĩ phu yêu nước. Cuối cùng ông còn là một nghĩa sĩ, người đã cùng Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Quảng Trị, hạ chiếu Cần vương, khởi dậy phong trào Cần vương khắp Trung Nam Bắc để rồi gửi tấm thân mình nơi biển cả trên đường bị thực dân Pháp đưa đi đày từ Côn Đảo tới đảo Tahiti.

Đã đến lúc cần phải dóng lên hồi chuông kêu gọi những con cháu lớp trẻ hãy nhìn lại cội nguồn, nhìn lại lịch sử, học những cái hay, cái đẹp của người xưa, giữ lấy những cốt cách, những truyền thống tốt đẹp của quê hương đất nước ông cha ta, của dòng họ để làm nên sự nghiệp. Bởi vì sự nghiệp của đất nước cũng là tập hợp sự nghiệp của con người, của nhân dân, của những dòng họ.

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009

NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐÃ VÀ ĐANG THỰC HIỆN CỦA QUỸ GIẢI THƯỞNG PHẠM THẬN DUẬT

(TIN HOẠT ĐỘNG NHÂN CHUẨN BỊ KỶ NIỆM 10 NĂM QUỸ GTSH PHẠM THẬN DUẬT)

1. Mười năm liền, bắt đầu từ năm 2000, Qũy Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật đã phối hợp cùng với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức xét thưởng và trao 47 Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám cho các tiến sĩ sử học đã bảo vệ xuất sắc tại các Hôi đồng chấm luận án tiến sĩ sử học cấp Nhà nước (từ 2000 đến nay).

2. Thông qua Hội Phụ nữ Phường Ngọc Hà, Quận Ba Đình, Quỹ đã tài trợ nuôi dưỡng cho 2 học sinh nghèo tàn tật trong nhiều năm liền (từ năm 2002)

3. Kết hợp với Hội đồng Thi đua và Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình tổ chức trao Giải thưởng và học bổng cho các em học sinh đoạt Giải Nhất các môn học trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh; Giải Nhất, Nhì, Ba các môn học trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp Quốc gia và các kỳ thi Olympic Quốc tế của các trường THPT và THCS trong huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, quê hương của danh nhân Phạm Thận Duật (năm 2003)

4. Thông qua Quỹ Tấm lòng vàng Lao động của Báo Lao động, Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật gửi tặng quà gồm sách cho các thư viện tỉnh và vở học sinh cho các em học sinh nghèo ở các tỉnh bị bão lụt. (năm 2003) trị giá trên 100 triệu đồng.

5. Trao giải thưởng và học bổng cho các em học sinh giỏi đạt Huy chương vàng trong cuộc thi học sinh giỏi cấp tỉnh, và các học sinh xuất sắc của từng khối lớp của Trường Tiểu học Phạm Thận Duật, xã Yên Mạc, Yên Mô, Ninh Bình (từ năm 2007)

6. Trao tặng sách thiếu nhi cho Thư viện Trường Tiểu học Ngọc Hà, Quận Ba Đình, Hà Nội (2009)

7. Góp phần tài trợ cùng với Hội Sự nghiệp Từ Thiện Minh Đức xây dựng một ngôi nhà Hiền đức (nhà tình nghĩa) cho người nghèo và một cây cầu bê tông cho một xã thuôc huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (2008-2009)

8. Phối hợp với các bác sĩ, điều dưỡng viên của Hội Tấm lòng Nhân ái, Quỹ đã tổ chức và tài trợ cho Chương trình Khám bệnh, phát thuốc và phát quà cho đồng bào nghèo và gia đình chính sách ở xã Yên Mạc, Yên Mô, Ninh Bình, quê hương danh nhân Phạm Thận Duật (tháng 9.2009); ở xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương (tháng 10.2009) và góp phần tham gia tài trợ cho các Chương trình Khám bệnh, phát thuốc, phá quà cho đồng bào nghèo và các gia đình chính sách ở một số xã của các địa phương khác trong đó có Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên v.v....(trong các năm 2008-2009).

9. Tổ chức và tài trợ cho Chương trình Phát quà Trung thu cho các bệnh nhân ung thư ở Cơ sở 2 Bệnh viện K Hà Nội (tháng 9.2009)

10. Tổ chức Chương trình và góp phần tài trợ cho Chương trình cứu trợ đồng bào bị bão lụt ở hai tỉnh Thừa Thiên-Huế và Quảng Trị do cơn bão số 9 gây ra ở các tỉnh miền Trung.(tháng 10.2009)

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2009

CÁC TÁC PHẨM VIẾT VỀ PHẠM THẬN DUẬT ĐÃ XUẤT BẢN TỪ NĂM 1989 ĐẾN NAY

TƯ LIỆU DANH NHÂN

1. PHẠM THẬN DUẬT-CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM.
Tác phẩm do nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyền sưu tầm và biên soạn với sự tham gia dịch thuật của Hoàng Lê, Ngô Thế Long, Phạm Văn Thắm, Nguyễn Hữu Tưởng và do Gs Nguyễn Hồng Phong, Viện trưởng Viện Sử học viết lời giới thiệu; Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1989.
Phạm Thận Duật-Cuộc đời và tác phẩm là một công trình nghiên cứu công phu và nghiêm túc, là tác phẩm mở đầu trong việc nghiên cứu và tìm hiểu nhân vật lịch sử Phạm Thận Duật. Cuốn sách ra đời như một phát súng thần công nổ phát đầu tiên cho cả một trận tuyến nghiên cứu về Phạm Thận Duật nói riêng và các nhân vật lịch sử dưới triều Nguyễn nói chung. Sách chia làm 3 phần : Phần 1 nói về Bước đầu tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Phạm Thận Duật. Phần 2 nói về các tác phẩm của danh nhân và Phần 3 là Phần phụ lục cung cấp thêm những tư liệu có liên quan đến danh nhân. Sách in khổ 13 x 19cm dày 436 trang in với số lượng 820 cuốn.

2. VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP PHẠM THẬN DUẬT.
Về con người và sự nghiệp Phạm Thận Duật là một tập hợp những bài viết, bài nói về danh nhân Phạm Thận Duật do Phạm Đình Nhân (bút danh Phạm Hưng An) và Nguyễn Quang Ân sưu tầm và biên soạn. Sách gồm 2 phần, phần đầu gồm 14 bài viết của các tác giả viết đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng trong khoảng thời gian từ năm 1989 đến năm 1993 và phần hai gồm các tư liệu như tập Vọng Sơn niên phả và Niên biểu về Phạm Thận Duật. Sách được in khổ 14,5 x 20,5cm, dày 128 trang do Phòng Tư liệu Viên Sử học ấn hành năm 1994.

3. PHẠM THẬN DUẬT-SỰ NGHIỆP VĂN HOÁ, SỨ MỆNH CẦN VƯƠNG.
Cuốn Phạm Thận Duật-Sự nghiệp văn hoá, sứ mệnh Cần Vương là cuốn kỷ yếu về đợt Lễ kỷ niệm 110 năm ngày mất danh nhân Phạm Thận Duật. Sách gồm các bài viết, bài phát biểu trong Lễ tưởng niệm danh nhân ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội, Lễ Khánh thành Nhà bia tưởng niệm danh nhân và những tham luận tại Hội nghị khoa học về danh nhân tổ chức tại Ninh Bình, quê hương danh nhân. Sách gồm 3 phần : Phần 1 gồm những bài phát biểu tại các buổi lễ. Phần 2 gồm những tham luận gửi tới và đọc tại Hội nghị khoa học về danh nhân và Phần 3 là phần Phụ lục gồm một số bài đăng trên các báo chí nhân dịp lễ kỷ niệm và một số tư liệu bổ sung về phong trào Cần Vương cùng các tư liệu khác về Phạm Thận Duật.
Sách do Phạm Đình Nhân và Nguyễn Quang Ân sưu tầm và biên soạn, Gs.NGND Đinh Xuân Lâm viết lời giới thiệu và do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1997 in khổ 14,5 x 20,5, dày 400 trang, số lượng in 500 cuốn.

4. SÓNG TRÀO NON BẢNG.
Sóng trào non Bảng là một tập truyện ký về danh nhân Phạm Thận Duật do nhà nghiên cứu văn hoá, Giáo sư Vũ Ngọc Khánh viết. Gs.NGND Đinh Xuân Lâm, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm Unesco Thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam viết lời giới thiệu, và được Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2000, nhân Lễ kỷ niệm 115 năm ngày mất danh nhân. Tác giả Vũ Ngọc Khánh đã dựng lại toàn bộ cuộc đời Phạm Thận Duật từ thuở hàn vi nhà nghèo nhưng chịu khó cần cù học tập qua toàn bộ những năm tháng làm việc vì dân vì nước cho đến cái chết bi phẫn của ông trên biển cả dọc đường bị thực dân Pháp đưa đi đầy từ Côn Đảo tới đảo Tahiti. Sóng trào non Bảng in khổ 14,5 x 20,5cm, dày 204 trang, số lượng in 500 cuốn.

5. PHẠM THẬN DUẬT TOÀN TẬP.
Đây là một tập sách dày biên soạn công phu nhằm giới thiệu các tác phẩm bằng chữ Hán của Phạm Thận Duật gồm các cuốn Hưng Hoá ký lược, Hà đê tấu tập, Vãng sứ Thiên tân nhật ký và Quan Thành văn tập. Các tác phẩm này đều được dịch và có in kèm ở cuối sách nguyên văn bản chữ Hán được sao chụp.
Sách gồm 3 phần : Phần 1 giới thiệu Thân thế và sự nghiêp Phạm Thận Duật và niên biểu danh nhân. Phần 2 giới thiệu các tác phẩm của Phạm Thận Duật. Ở mỗi tác phẩm của danh nhân đều được giới thiệu bản dịch và một công trình nghiên cứu của các Giáo sư, nhà nghiên cứu nói về giá trị của các tác phẩm của danh nhân để lại. Phần thứ 3 có các bản sao chụp nguyên văn chữ Hán của các tác phẩm của danh nhân..
Sách do Phạm Đình Nhân sưu tầm và biên soạn với sự cộng tác phần dịch thuật của Nguyễn Văn Huyền, Ngô Thế Long, Hoàng Lê, Phạm Văn Thắm, Nguyễn Hữu Tưởng, Phạm Đức Duật. Sách còn có sự tham gia viết bài của các giáo sư và nhà nghiên cứu : Gs.Phan Văn Các, Gs.Trần Nghĩa và Ks.Phan Khánh nhằm đánh giá các giá trị của tác phẩm danh nhân để lại. Giáo sư Đình Xuân Lâm, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm Unesco Thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam viết lời giới thiệu
Sách được in nhân lễ kỷ niệm 115 năm ngày mất danh nhân, khổ 16 x 24cm, dày 840 trang, được in với số lượng 500 cuốn do Nhà xuất bản Văn hoá-Thông tin ấn hành năm 2000.

6. PHẠM THẬN DUẬT, MỘT NHÂN CÁCH LỚN.
Phạm Thận Duật, một nhân cách lớn là một công trình xuất bản nhân kỷ niệm 120 năm ngày mất danh nhân Phạm Thận Duật. Cuốn sách được tập hợp toàn bộ những bài phát biểu, những bài viết, bài nói và những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử và văn hoá, của các giáo sư, tiến sĩ nói về Phạm Thận Duật qua các buổi lễ, hội thảo khoa học về danh nhân. Sách cũng có một phần dành riêng cho những bài viết về Quỹ Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật được thành lập từ năm 2000 để phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao tặng Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật cho các tiến sĩ sử học xuất sắc trong cả nước..
Sách gồm 4 phần. Phần 1 dành cho những công trình nghiên cứu về Phạm thận Duật từ năm 1989 đến 1995 gồm 18 bài viết. Phần 2 dành cho những công trình nghiên cứu về Phạm Thận Duật nhân lễ kỷ niệm 110 năm ngày mất danh nhân (29.11.1885 – 29.11.1995) gồm 59 bài viết. Phần 3 dành cho những bài phát biểu và bài viết nhân lễ kỷ niệm 115 năm ngày mất danh nhân (29.11.1885 – 29.11.2000) gồm 11 bài. Phần 4 dành cho những bài viết về Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật gồm 16 bài. Tổng cộng sách có 84 bài viết trong khoảng thời gian từ 1989 đến 2004.
Sách do Gs Đinh Xuân Lâm và Phạm Đình Nhân sưu tầm và biên soạn với Lời giới thiệu của Gs. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Sách được in nhân lễ kỷ niệm 120 năm ngày mất danh nhân Phạm Thận Duật, do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin ấn hành năm 2005, khổ 16 x 24cm, dày 508 trang, in với số lượng 500 cuốn.

7. MƯỜI NĂM, MỘT CHẶNG ĐƯỜNG.
Đây là tập kỷ yếu biên soạn nhân Lễ kỷ niệm 10 năm Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật, 10 năm thành lập Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật và Lễ trao Giải thưởng Sử học lần thứ 10 (năm 2009) tổ chức đúng vào dịp Lễ kỷ niệm lần thứ 124 ngày mất của danh nhân. Sách gồm các bài viết giới thiệu về quá trình hình thành Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật, các văn bản đi đến việc thành lập Quỹ và việc công bố Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật, sách cũng giới thiệu Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Giải thưởng, giới thiệu Hội đồng Điều hành Quỹ, Hội đồng Xét thưởng Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật, giới thiệu Bảng vàng danh dự 49 tiến sĩ sử học được nhận Giải thưởng trong 10 năm qua (2000-2009). Sách còn giới thiệu các bài viết của những người có trách nhiệm của Hội KHLS Việt Nam và của Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật về việc giới thiệu và đánh giá Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật và cuối cùng là phần Phụ lục giới thiệu những tài liệu liên quan đến nhân vật lịch sử Phạm Thận Duật cùng những hoạt động đã và đang thực hiên trong 10 năm qua của Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật
Sách có gần 70 bức ảnh màu, khổ 16 x 24, dày 114 trang, in 600 bản do Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật phát hành phục vụ lễ kỷ niệm

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2009

CÁC TÁC PHẨM CỦA PHẠM THẬN DUẬT ĐỂ LẠI CHO ĐỜI SAU

(TƯ LIỆU DANH NHÂN)
Trong suốt hơn 35 năm (1851 -1885) làm việc vì dân vì nước, Phạm Thận Duật đã để lại cho đời sau những tác phẩm sau :
1. HƯNG HOÁ KÝ LƯỢC :
Tác phẩm Hưng Hoá ký lược là một tập địa chí viết về tỉnh Hưng Hoá thời bấy giờ, tác phẩm được viết bằng chữ Hán (khoảng 42.000 chữ) vào năm Bính Thìn 1856, khi tác giả mới ngoài ba mươi tuổi, một năm sau khi ông nhận chức Tri châu Tuần Giáo.
Hưng Hóa là tên một đạo trong 13 đạo thừa tuyên lập ra từ niên hiệu Quang Thuận của vua Lê Thánh Tông, đến đầu thời Nguyễn (Minh Mệnh 12 tức năm 1831) là một tỉnh gồm 3 phủ, 5 huyện và 16 châu, với địa vực khá rộng, phía đông liền với huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao tỉnh Sơn Tây (lúc đó); phía tây tiếp giáp các huyện Kiến Thủy, Văn Sơn, phủ Khai Hoá nước Thanh (Trung Quốc) và các nước Nam Chưởng, Xa Lí; phía nam giáp huyện Trình Cố, châu Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá và huyện Lạc Yên, tỉnh Ninh Bình; phía bắc tiếp Châu Thu, tỉnh Tuyên Quang.
Sách Hưng Hóa ký lược gồm 12 mục, trình bày về các phương diện lịch sử, địa lí, kinh tế và văn hoá của tỉnh Hưng Hóa thời bấy giờ. Hiện nay thư viên Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được hai bản sách Hưng Hoá ký lược. Bản có ký hiệu A.91, là bản chép tay khổ 15 x 29cm gồm 74 tờ 2 trang, trang 7 dòng, dòng 25 chữ gồm 7 đề mục và bản có ký hiệu A.1429, cũng là sách chép tay khổ 15 x 27cm gồm 134 tờ, tờ 2 trang, trang 7 dòng, dòng 29 chữ, có đủ 12 đề mục về địa chí Hưng Hoá. Ngoài ra tại thư viện Viên Sử học có một bản mang kí hiệu HV.205, bản mà nhà thư tịch học Trần Văn Giáp đã lược thuật trong tác phẩm Tìm hiểu kho sách Hán Nôm nổi tiếng của mình. Hưng Hoá ký lược (bản A. 1429 và A.91) đã được dịch giả Ngô Thế Long dịch và đã đăng trong Phạm Thận Duật toàn tập (có kèm theo bản sao chụp nguyên văn chữ Hán) do Phạm Đình Nhân sưu tầm và biên soạn, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin ấn hành năm 2000
2. HÀ ĐÊ TẤU TẬP:
Đó là những tác phẩm do Phạm Thận Duật viết dưới hình thức bản tấu trình lên Nhà Vua và triều đình trong thời gian ông làm quan ở Bắc Ninh và chủ yếu là trong thời gian ông nhậm chức Khâm sai Hà đê sứ, phụ trách trị thuỷ 6 tỉnh vùng Tả ngạn sông Hồng (1876 – 1878). Những tác phẩm về đê điều của Phạm Thận Duật gồm 49 bản tấu hiện nay còn lưu ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nằm trong các tập Hà đê tấu tập, Hà đê tấu tư tập, Hà đê bộ văn tập và Điểu trần đê chính sự nghi tập. Trong những tập sách này, có tập viết chung với những người khác. Tuy nhiên có một số bản tấu khác của ông còn nằm rải rác ở một số nơi như trong Châu bản Triều Nguyễn...mà nay chưa tập hợp được.
Bản Hà đê tấu tập :
Sách lưu ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có ký hiệu A.616, khổ 21 x 31 cm dày 398 trang, có 8 bản tấu.
3. HÀ ĐÊ TÁU TƯ TẬP :
Sách lưu ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có ký hiệu A.619,khổ giấy 21 x 31cm, 199 tờ, có 9 bản tấu.
4. HÀ ĐÊ BỘ VĂN TẬP:
Sách lưu ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có ký hiệu A.617, khổ 21 x 31cm, dày 318 trang có 1 bản tấu.
5. ĐIỀU TRẦN ĐÊ CHÍNH SỰ NGHI TẬP:
Có lưu ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có ký hiệu VHv: 169/1-2 dày 300 trang, khổ 17 x 30cm, có 1 bản tấu
Tất cả 19 bản tấu ghi trong các sách kể trên đã được các dịch giả Phạm Văn Thắm, Hoàng Lê, Nguyễn Hữu Tưởng dịch chung trong Hà đê tấu tâp (có kèm theo bản sao chụp nguyên văn chữ Hán) được đưa vào trong Phạm Thận Duật toàn tập do Phạm Đình Nhân sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin xuất bản năm 2000
6.VÃNG SƯA THIÊN TÂN NHẬT KÝ :
Vãng sứ Thiên Tân nhật ký (Nhật ký đi sứ Thiên Tân) là một tác phẩm được Phạm Thận Duật viết vào năm 1883 trong khi ông lãnh nhiệm vụ Chánh sứ sang Thiên Tân (Trung Quốc). Hiện nay ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn hai bản chữ Hán có cùng một nội dung, cùng khổ giấy 20cm x 30cm, mỗi trang 9 hàng, mỗi hàng 18 chữ đều là bản sao, nhưng có khác nhau đôi chút :
- Bản Vãng sứ Thiên Tân nhật ký có ký hiệu A1471, gồm 56 tờ, trong đó nội dung chính có 45 tờ, không có bản đồ. Hiện nay bản này đã được dịch in trong Phạm Thận Duật toàn tập do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin xuất bản năm 2000.
- Bản Kiến Phúc nguyên niên Như Thanh nhật trình, ký hiệu A.929 có 63 tờ. Nội dung chính có 52 tờ trong đó có 3 bản đồ sơ lược về Thiên Tân, Thượng Hải và Hương Cảng. Phần cuối còn có mục Trung triều định chế, ghi chép các định chế của triều Thanh, Trung Quốc.
Sách Vãng sứ Thiên tân nhật ký đã được dịch giả Phạm Văn Thắm dịch dựa theo bản A.1471 là chính (có đối chiếu với bản A.929) và đã được đưa vào sách Phạm Thận Duật toàn tập (có kèm theo bản sao chụp nguyên văn chữ Hán) do Phạm Đình Nhân sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin xuất bản năm 2000.
7. QUAN THÀNH VẮN TẬP :
Đây là tập thơ văn của Phạm Thận Duật, bao gồm cả thơ, (12 bài), văn (42 bài bao gồm cả văn, văn tế, văn bia, tấu, biểu...) và nhiều nhất là câu đối (110 câu đối). Các tác phẩm được viết rải rác trong suốt cuộc đời của ông từ khi 16 tuổi đến khi qua đời. Riêng bài thơ “Vịnh cái nồi đồng” có trong Vọng sơn niên phổ cũng được đưa vào bản dịch Quan Thành văn tập
Sách Quan Thành văn tập hiện còn lưu giữ ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có ký hiệu A.1095, dày 126 tờ khổ 15x26cm. Quan Thành văn tập đã được dịch trọn bộ đăng trong cuốn Phạm Thận Duật toàn tập (có kèm theo bản sao chụp nguyên văn chữ Hán) do Phạm Đình Nhân sưu tầm và biên soạn, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin ấn hành năm 2000.

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2009

QUỸ GIẢI THƯỞNG PHẠM THẬN DUẬT THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH KHÁM BỆNH, PHÁT THUỐC, PHÁT QUÀ CHO ĐỒNG BÀO NGHÈO VÀ GIA ĐÌNH CHÍNH SÁCH

(Tin tức hoạt động)

Ngày 25.10.2009, tại xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật đã phối hợp với Hội Tấm Lòng Nhân Ái thực hiên Chương trình khám bệnh, phát thuốc, phát quà cho đồng bào nghèo và gia đình chính sách trong xã.
Trước đó, ngày 6.9.2009, Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật đã cùng với Hội Tấm Lòng Nhân Ái tổ chức Chương trình khám bệnh, phát thuốc, phát quà cho đồng bào nghèo và gia đình liệt sĩ ở xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, quê hương của danh nhân Phạm Thận Duât.

Để chuẩn bị cho Chương trình khám bệnh và phát thuốc, phát quà tại xã Quang Phục, Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật đã thông qua Đại đức Thích Từ Sơn, vị tăng trụ trì chùa Đống Duyên thuộc thôn Thái An xã Quang Phục để gặp gỡ với các vị đại diện Đảng uỷ và chính quyền xã làm việc và ấn định kế hoạch chi tiết cho Chương trình. Các vị lãnh đạo ở xã đã vui mừng đón nhận chương trinh và đã tạo điều kiện để Quỹ Phạm Thận Duật và Hội Tấm Lòng Nhân Ái tổ chức một đoàn 40 người gồm có các y bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng viên và các thiện nguyện viên là những Phật tử. Quỹ Phạm Thận Duật đã tài trợ cho chương trình này để khám và phát thuốc cho trên 350 đồng bào nghèo là các cụ cao tuổi, người bị bệnh mãn tính và các gia đình thuộc diện chính sách trong xã. Quỹ còn tặng quà cho 45 đồng bào nghèo và gia đình chính sách trong xã. Mỗi xuất quà bao gồm một chăn nỉ xuất khẩu, một màn tuyn và một áo phông với giá trị 150.000 đ/xuất.

Đúng 9 giờ sáng ông Phó Chủ tịch xã phát biểu trước đông đảo bà con trong xã và Đoàn từ thiện, cảm ơn Đoàn đã dành cho xã Quang Phục chương trình khám bệnh, phát thuốc, phát quà ngày hôm nay. Ông Phạm Đình Nhân, Chủ tịch Quỹ Phạm Thận Duật, đơn vị tài trợ đã phát biểu trước bà con trong xã, nói lên niềm hạnh phúc của tất cả các thành viên trong Đoàn được đem tâm làm việc thiện với tinh thần coi những người được mình giúp đỡ là ân nhân của chính mình. Bác sĩ Trần Bảo Khánh phụ trách Hội Tấm Lòng Nhân Ái đã phổ biến quy trình khám bệnh cho bà con . Tất cả chỉ diễn ra trong 10 phút và sau đó chương trình được tiến hành ngay.

Tuy số lượng đồng bào nghèo đến khám bệnh đông hơn những chương trình trước, nhưng các bác sĩ, dược sĩ, thiện nguyện viên đã làm việc hết mình để chương trình diễn ra trọn vẹn, kịp khám cho tất cả số lượng bà con đã đến. Chương trình đã phải kéo đến 13 giờ 15 mới xong. Tuy bữa trưa phải ăn muộn hơn gần 2 tiếng đồng hồ song tất cả thành viên trong Đoàn đều rất vui mừng được phục vụ bà con nghèo với tâm nguyện được làm việc thiện. Đoàn được Nhà sư Thích Từ Sơn, trụ trì chùa Đống Duyên mời cơm chay thân mật. Thật là một ngày Chủ nhật được sống trong niềm hân hoan vì đã làm được việc tốt.
free counters