Bài nói trong buổi lễ trao Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật lần thứ 2 (29.11.2001) tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội
PHẠM THẬN DUẬT,
MỘT NHÀ SỬ HỌC CHÂN CHÍNH
Gs, NGND ĐINH XUÂN LÂM
Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt
Phó Chủ tịch Hội đồng Điều hành Quỹ GTSH Phạm Thận Duật
Chủ tịch Hội đồng Xét thưởng
Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật
Phạm Thận Duật (1825-1885) hiệu là Vọng Sơn, tên chữ là Quan Thành, quê làng Yên Mô thượng, tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình).
Từ một nho sinh nghèo, sớm mồ côi cha, mẹ phải tần tảo nuôi con, rồi đi học thi đỗ và ra làm quan, cuộc đời Phạm Thận Duật cũng giống như nhiều nho sĩ khác cùng thời, nhưng có điểm rất đáng được trân trọng và đề cao. Đó là phẩm chất một sĩ phu chân chính, một trí thức dân tộc tiểu biểu đã bộc lộ từ rất sớm, và ngày càng phát triển trong một thời đại đầy biến động của lịch sử dân tộc hồi cuối thế kỷ XIX. Ngay từ những ngày đầu ra làm quan (1852), và sau đó suốt trên hoạn lộ đằng đẵng đến 30 năm đầy khó khăn gian khổ, kinh qua bao chức vụ từ nhỏ tới lớn, ở các địa phương cũng như ngay tại kinh thành, về nhiều mặt và trong bất cứ công tác nào được giao, ông đều tỏ ra là một người năng động, luôn luôn mang hết sức mình phục vụ, một lòng vì dân, vì nước.
Bắt đầu với chức Giáo thụ (dạy học) ở một phủ, rồi làm quan cai trị tại các châu, huyện, phủ miền trung du và miền rừng núi, kể cả dưới miền đồng bằng, có lúc về kinh, lại có thời gian được cử đi phụ trách công tác khai hoang với chức Đồn điền sứ, hay lĩnh chức Hà đê sứ chỉ huy việc trị thủy sáu tỉnh tả ngạn sông Hồng, cũng có thời gian trực tiếp cầm quân tiễu phỉ trên miền biên giới và dọc miền duyên hải. Đặc biệt vào đầu năm 1883 đã cầm đầu phái bộ ngoại giao sang cầu viện nhà Thanh (Trung Quốc) đưa quân sang Việt
Lợi dụng tình hình đó, thực dân Pháp đã liên tiếp dùng áp lực quân sự buộc triều đình Huế phải ký Hoà ước Quý Mùi (25.8.1883) đến Hoà ước Giáp Thân (6.6.1884) đánh dấu sự sụp đổ nhà nước phong kiến độc lập của Việt Nam trước sự tấn công hung bạo của chủ nghĩa tư bản Pháp. Nhân nói đến việc ký kết Hoà ước Giáp Thân (6.6.1884), cũng cần nêu rõ tài ngoại giao của Phạm Thận Duật, mặc dù bị đặt vào thế yếu, ông lúc đó giữ chức trưởng đoàn ngoại giao của ta, đã kiên quyết đấu tranh, giành giật với địch một số điều khoản có lợi cho phong trào Cần Vương mà Phạm Thận Duật sau đó được xem như là một người đã góp phần phát động vào cuối năm 1885. Như đã đòi lại bốn tỉnh Bình Thuận, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh là các địa phương có phong trào chống xâm lược Pháp rất mạnh ngay từ đầu, và đã hưởng ứng kịp thời và mạnh mẽ ngay sau khi phong trào Cần Vương bùng nổ (7.1885). Cũng như về các điều kiện đóng quân của Pháp tại Việt Nam nói chung và tại kinh thành Huế nói riêng , tuy được quy định rất có lợi cho Pháp, nhưng lại không đề cập tới số phận quân đội triều đình và như vậy là rất có lợi cho phái kháng chiến một khi chiến sự xảy ra, sẵn có lực lượng trong tay để kịp thời hành động. Đó là chưa nói tới việc quân Pháp không được phép vào đóng trong thành Huế để có thể trực tiếp theo dõi, giám sát mọi hoạt động của quân đội triều đình do thủ lĩnh phái kháng chiến Tôn Thất Thuyết nắm.
Tôn Thất Thuyết, người thủ lĩnh tối cao của phong trào kháng chiến lúc đó đã đặt rất nhiều tin tưởng vào Phạm Thận Duật. Ông đã giao cho Phạm Thận Duật trách nhiệm Khâm sai đại thần để đi đường thuỷ ra Bắc Kỳ lãnh đạo toàn bộ công cuộc kháng chiến. Nhưng Phạm Thận Duật chưa kịp xuống thuyền vượt biển ra Bắc đã bị tay sai của Pháp chặn bắt cùng toàn thể gia quyến sáng ngày 29.7.1885. Vô cùng khẳng khái trước kẻ thù, ông không chịu khai báo bất cứ điều gì có hại cho sự nghiệp cứu nước mà mình đang theo đuổi. Thất bại thảm hại trong mọi âm mưu lung lạc, mua chuộc ông, cuối cùng kẻ thù bất lực đã đày ông ra Côn đảo và ông đã mất trên đường đi đày từ Côn đảo ra đảo Tahiti ngày 29.11.1885, kết thúc một cách bi hùng cuộc đời một văn thân yêu nước.
Một hoạt động khác rất có kết quả với những đóng góp to lớn của Phạm Thận Duật là về mặt văn hoá, sử học.. Tháng 10.1878 (Mậu Dần), ông được vua Tự Đức giao cho việc xét duyệt thẩm định lại bộ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Một tháng sau (11.1878), để chính thức hóa nhiệm vụ mới được giao, ông được cử lĩnh Quyền Thượng thư Bộ Hình, Phó Tổng tài Quốc sử quán kiêm quản Quốc tử giám. Đến năm 1881 (Tân Tỵ), ông được thực thụ Thượng thư Bộ Hình, Phó Tổng tài Quốc sử quán, kiêm quản Quốc tử giám, đại thần Viện Cơ mật, tòng nhị phẩm. Việc Phạm Thận Duật được bổ kiêm nhiệm Phó Tổng tài Quốc sử quán đã chính thức hoá sự khẳng định của vua Tự Đức về phẩm chất của ông qua việc trước đó đã giao kiểm duyệt lại công trình lịch sử đồ sộ thời Nguyễn là bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục với lời uỷ thác :"Bộ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục các ban đã kiểm phúc, nay giao cho Phạm Thận Duật lúc thư nhàn đem ra xem xét, có chỗ nào nên đổi và nên thêm bớt cho được hoàn chỉnh....Cứ xem xét các bản sớ tấu cũng đủ biết y (Phạm Thận Duật) thường lưu tâm đến điển xưa tích cũ, tất là thấy rộng nghe xa. Nay nên lưu tâm kiểm soát để khỏi ân hận. Ngày nào xong, tiến trình ngay" (Theo Vọng Sơn niên phả-Bản dịch của Phạm Quý Trầm).
Trong thời gian ông đi sứ sang Thiên Tân (Trung Quốc), tình hình nước nhà có nhiều biến động: vua Tự Đức mất, vua Dục Đức lên ngôi được ba ngày thì bị phế, các phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường lập Hiệp Hoà lên thay cũng chỉ được bốn tháng đã bị truất, chính vào lúc đó Pháp đánh chiếm cửa Thuận An, buộc triều đình Huế ký Hoà ước Quý Mùi (25.8.1883). Nhưng khi về đến triều đình Huế (21.1.1884), ông vẫn được giữ chức vụ cũ, chỉ có đổi từ Thượng thư Bộ Hình sang Thượng thư Bộ Hộ, Phó Tổng tài Quốc sử quán, kiêm quản Quốc tử giám, Đại thần Viện Cơ mật; sau đó lại còn thay mặt triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Giáp Thân (6.6.1884).
Tất cả các sự kiện dồn dập trên cho thấy Phạm Thận Duật đã nổi lên hàng đầu trong tình hình lúc đó và được phái kháng chiến trong triều do Tôn Thất Thuyết đứng đầu hết sức tin cậy. Thực hiện nhiệm vụ được giao với một tinh thần trách nhiệm cao, ngày 10.9.1884 (Giáp Thân), ông đã dâng biểu báo cáo hoàn thành bộ Quốc sử, xin chính thức cho in và công bố Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Có thể khẳng định đó là đóng góp to lớn của Phạm Thận Duật vào việc biên soạn bộ quốc sử dưới triều Nguyễn.
Để đánh giá công lao của Phạm Thận Duật đối với sử học nước nhà, còn cần thấy rằng các tác phẩm khác của ông tuy không chính thức là những công trình sử học, nhưng trong thực tế thì nội dung đã chứa đựng những yếu tố lịch sử và tư duy của người viết cũng là tư duy của một nhà sử học. Giờ đây xem Quan Thành văn tập thì thấy rõ năng khiếu, sở thích của ông về sử. Các bài văn trong sách cho thấy xuyên suốt là một cảm hứng lịch sử mạnh mẽ, cũng như trong các trước tác khác của ông. Như trong văn tế Đền Vạn Kiếp, ngọn bút sử của ông như muốn lý giải cái nguyên nhân sâu xa làm nên sự tích của anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Không chỉ nêu cao các chiến công oanh liệt của nhà quân sự thiên tài, ông còn nhấn mạnh đến thái độ tôn sùng của nhân dân đối với người anh hùng, đến phẩm chất và đạo đức của người anh hùng, qua đó là sự đánh giá trân trọng của người viết sử đối với nhân vật lịch sử. Đọc kỹ cuốn Vãng sứ Thiên Tân nhật ký, ta lại bắt gặp phong độ của người viết ký hoà nhập với phong độ của người viết sử qua cách ghi chép nghiêm nhặt, cụ thể từng ngày, thậm chí từng giờ, từng địa điểm về các cuộc hội đàm giữa ông với Lý Hồng Chương (Tể tướng nhà Thanh), người đọc nắm bắt được lịch trình của sứ đoàn cùng các khó khăn vất vả của sứ đoàn trên đất khách. Ngay cả trong các tập Hà đê tấu tập và Hà đê tấu tư tập, nếu gạt đi các thủ tục "tâu", "trình" có tính chất hành chính, chúng ta vẫn bắt gặp những luận chứng về lịch sử. Cuối cùng phải nói đến Hưng Hoá ký lược, một trước tác có tầm cỡ nhất của ông. Tuy là một cuốn sách địa chí, nhưng với năng khiếu sử học sẵn có, Phạm Thận Duật đã để lại cho chúng ta ngày nay những trang khảo cứu khá công phu, không chỉ đề cập một cách toàn diện tới nội dung truyền thống mà bất cứ một cuốn địa chí nào đều phải có, lại còn đặc biệt đi sâu giới thiệu các yếu tố lịch sử với sự biến thiên diên cách, tình hình kinh tế, văn hoá, cùng phong tục, tập quán, phong trào đấu tranh của cư dân sinh sống trên cả một vùng Tây Bắc nước ta từ hữu ngạn sông Hồng đến tận biên giới phía nam Trung Quốc và đông bắc Lào. Tất cả các trước tác của Phạm Thận Duật (có tác phẩm viết chung, có tác phẩm viết riêng) đều có giá trị tư liệu nghiên cứu về hành trạng của ông, đều là các chuyên đề về lịch sử, ngoại giao, địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội, rất cần thiết cho việc biên soạn lịch sử của người đời sau. Trên cơ sở những hoạt động và đóng góp cụ thể về lịch sử như vậy, có thể khẳng định Phạm Thận Duật là một trong số những nhà sử học lớn của nước ta trước kia mà ngày nay chúng ta vẫn có thể thừa hưởng các kết quả ông để lại khi nghiên cứu lịch sử, cũng như học tập phong cách viết sử chặt chẽ, nghiêm ngặt của một ngòi bút sử chân chính và đích thực.
Chính trên ý nghĩa đó mà Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cùng với Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật của hậu duệ họ Phạm, được sự đồng ý của cơ quan văn hoá, đã phối hợp tổ chức việc tuyển chọn và trao Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật hàng năm cho các luận án Tiến sĩ về lịch sử. Hội Khoa học Lịch sử rất trân trọng và hoan nghênh ý tưởng của hậu duệ danh nhân Phạm Thận Duật đã sáng lập và tổ chức ra Quỹ Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật, đã đề nghị với Hội công bố Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật với ý nghĩa tôn vinh một nhà văn hoá, nhà sử học chân chính của thế kỷ XIX và với mục đích nhằm khuyến khích động viên tài năng và trí tuệ của giới sử học. Quy chế của Qũy Giải thưởng sử học Phạm Thận Duật đã xác định đó là một quỹ tồn tại lâu dài và nhiều đời, hoạt động theo quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ và với sự phối hợp chặt chẽ của Hội Khoa học lịch sử Việt
Hàng năm, lễ trao Giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật được tổ chức tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội vào ngày 29.11 dương lịch, nhân kỷ niệm ngày mất của danh nhân. Với ý nghĩa đó, xin trân trọng cảm ơn các đại biểu, các vị cùng các bạn đã tới dự buổi lễ trao giải thưởng hôm nay
Đọc bài viết của giáo sư Đinh Xuân Lâm, tôi thấy chưa thỏa đáng khi chú thích Giáo thụ (dạy học). Khi tra từ điển tôi được biết: Giáo thụ - Viên chức trông coi việc giáo dục tại một phủ trong thời phong kiến và Pháp thuộc.
Trả lờiXóaGiáo dục thời xưa, triều đình không có "đội ngũ giáo viên", học trò phải tầm sư học đạo là các thầy đồ. Triều đình chỉ có đội ngũ "quản lý giáo dục" rất mỏng Huấn đạo, Giáo thụ, Đốc học - họ được nhân dân trọng vọng